Mô tả Odocoileus hemionus inyoensis

Sự khác biệt đáng chú ý nhất giữa hươu đuôi trắng và hươu la là kích thước đôi lỗ tai của chúng, màu sắc đuôi, và hình dạng sừng gạc. Trong nhiều trường hợp, kích thước cơ thể cũng là một sự khác biệt quan trọng. Đuôi hươu la có ngọn màu đen, trong khi hươu đuôi trắng không có. Gạc hươu la chẻ đôi; chúng "chẻ ba" khi hươu phát triển, chứ không phải phân nhánh từ một trục chính đơn nhất, như trường hợp hươu đuôi trắng. Mỗi mùa xuân, gạc hươu đực bắt đầu mọc trở lại gần như ngay lập tức sau khi gạc cũ gãy đi. Sự gãy thường diễn ra vào giữa tháng hai, với biến thể diễn ra bởi nơi xảy ra. Mặc dù có khả năng chạy, hươu la thường thấy động tác stotting (1 động tác nhảy vọt lên khi gặp nguy hiểm) (còn gọi là pronking), với cả bốn bàn chân đi xuống với nhau. Hươu đuôi đen cũng đã được du nhập đến Kauai, Hawaii.

Hươu la là loài lớn trong 2 loài thuộc chi Odocoileus trên trung bình, với chiều cao khoảng 80–106 cm (31–42 in) tại bờ vai và chiều dài từ mũi đến đuôi khoảng từ 1,2 đến 2,1 m (3,9 đến 6,9 ft). Trong số này, đuôi có thể bao gồm 11,6 đến 23 cm (4,6 đến 9,1 in). Hươu đực trưởng thành (male deer) thường nặng 55–150 kg (121–331 lb), trung bình khoảng 92 kg (203 lb), mặc dù mẫu vật trưng bày có thể nặng lên đến 210 kg (460 lb). Hươu cái trưởng thành (female deer) khá nhỏ và thường nặng từ 43 đến 90 kg (95 đến 198 lb), với mức trung bình khoảng 68 kg (150 lb).[8][9][10][11] Không giống hươu đuôi trắng, hươu la thường không cho thấy sự thay đổi kích thước đáng kể dọc theo phạm vi loài, mặc dù điều kiện môi trường có thể gây ra biến động trọng lượng đáng kể trong bất kỳ quần thể nhất định. Một ngoại lệ theo đấy, phân loài hươu đuôi đen Sitka (O. h. sitkensis). Phân loài này nhỏ hơn đáng kể so với các phân loài khác của hươu la, với trọng lượng trung bình khoảng 54,5 kg (120 lb) và 36 kg (79 lb) ở hươu đực và hươu cái, tương ứng.[12]

Liên quan